Thuyết nhận thức - Hành vi
Thuyết nhận thức - hành vi
Quá trình hình thành lý thuyết nhận thức - hành vi
Khái niệm về nhận thức: Theo "Từ điển Bách khoa Việt Nam", nhận thức là quá trình
biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó
con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể.
Khái niệm về hành vi: hành vi là xử sự của con nguời trong 1 hoàn cảnh cụ
thể, biểu hiện ra bên ngoài bằng lời nói, cử chỉ nhất định.
Các quan điểm về hành vi
và nhận thức xuất phát từ hai dòng tác phẩm tâm lý học có liên quan. Về mặt
lịch sử, lý thuyết học hỏi xuất hiện đầu tiên và phát triển trong TLH lâm sang
sử dụng trị liệu hành vi dựa trên nghiên cứu của TLH. Sheldon (1995) biểu đạt
bản chất của lý thuyết này là việc tách biệt ý thức và hành vi. Các quan điểm
tâm động học và quan điểm truyền thống lại cho rằng hành vi xuất phát từ một
quá trình thực hiện theo ý thức của chúng ta, điều này có nghĩa là hành vi của
con người xuất hiện dựa trên ý thức của họ. Nhưng lý thuyết học hỏi cho rằng
chúng ta không thể biết được điều gì đang xảy ra trong ý thức của ai đó. Do đó,
chúng ta chỉ có thể trị liệu tập trung đến việc giải quyết các vấn đề làm thay
đổi hành vi mà không quan tâm đến những vấn đề biến đổi nào có thể xảy ra trong
ý thức của chúng ta trong quá trình này.
Lý thuyết học hỏi xã hội
của Bandura (1977) mở rộng thêm quan điểm này và cho rằng hầu hết các lý thuyết
học hỏi đạt được qua nhận thức của con người và suy nghĩ về những điều mà họ đã
trải nghiệm qua. Họ có thể học hỏi qua việc xem xét các ví dụ của người khác và
điều này có thể áp dụng vào việc trị liệu.
Như vậy lý thuyết nhận
thức – hành vi là một phần của quá trình phát triển lý thuyết hành vi và trị
liệu, gần đây lại được xây dựng trên lý thuyết học hỏi xã hội. Nó cũng phát
triển vượt qua khỏi hình thức về trị liệu của lý thuyết trị liệu thực tế (Glasser-
1965) được các tác giả như Beck (1989) và Ellis (1962) đưa ra. Lý thuyết nhận
thức- hành vi đánh giá rằng: hành vi bị ảnh hưởng thông qua nhận thức hoặc các
lý giải về môi trường trong quá trình học hỏi. Như vậy, rõ rang là hành vi
không phù hợp phải xuất hiện từ việc hiểu sai và lý giải sai. Quá trình trị
liệu phải cố gắng sửa chữa việc hiểu sai đó, do đó, hành vi chúng ta cũng tác
động một cách phù hợp trở lại môi trường. Theo Scott (1989), có nhiều cách tiếp
cận khác nhau như theo quan điểm của Beck là đề cập tới cách tư duy lệch lạc về
bản thân (“mình là đồ bỏ đi..), về cuộc sống của chúng ta, về tương lai của
chúng ta đang hướng đến những nỗi lo âu và căng thẳng; quan điểm của Ellis có
trọng tâm về những niềm tin không hợp lý về thế giới và quan điểm trọng tâm của
Meincheanbeum (1977) về những mối đe dọa mà chúng ta trải qua.
Được xây dựng nên từ
những lý thuyết trên mà ngành công tác xã hội truyền thống đã lộ ra những bất
cập và những hạn chế. Cho đến những năm 1980, các lý thuyết nhận thức mới thiết
lập được một vị thế trong lý thuyết công tác xã hội chủ yếu là thông qua công
trình nghiên cứu của Goldstein (1982, 1984), đây là người tìm kiếm quan điểm
mang tính nhân văn vào các lý thuyết này. Quan điểm nhân văn cho rằng, chỉ có
cái hiện thực là vấn đề được nhận thức và được hiểu, hiện thực của than chủ cần
được tôn trọng và chấp nhận do đó không được phủ nhận nhận thức của thân chủ và
công kích họ. Thành tố về sự chấp nhận này đã mang lại hiệu quả cao hơn và mang
tính tự nhiên hơn so với những quan điểm truyền thống của Công tác xã hội.
Quan điểm của Sheldon về Trị liệu hành vi - nhận thức cho cá nhân
Đánh giá gần đây của
Sheldon về trị liệu hành vi đã đưa ra những đóng góp về mặt nhận thức. Theo ông
một thành tố quan trọng trong trị liệu hành vi chính là việc lựa chọn các yếu
tố tăng cường, thúc đẩy để củng cố hành vi. Các yếu tố này cần được quan sát,
khái quát hóa và mô hình hóa (học hỏi qua trải nghiệm), điều này đòi hỏi chúng
ta hành động dựa trên nhận thức của chúng ta về thế giới về cuộc sống. Sheldon
cũng chỉ ra việc học hỏi thông qua việc lập mô hình là nhận thức, điều này có
nghĩa là chúng ta tự suy nghĩ về bản thân trong các tình huống mà chúng ta đang
quan sát, chỉ ra được chúng ta hành động ra sao. Trong thực tế, việc thúc đẩy
cách nghĩ như trên là rất hữu ích.
Theo ông, lượng giá là
một khía cạnh quan trọng trong cách tiếp cận hành vi- nhận thức. Một chuổi hình
thức lượng giá phù hợp sẽ gồm những nội dung sau:
* Đạt được sự mô tả những
vấn đề từ những quan điểm khác nhau.
* Đưa ra những ví dụ về
ai bị tác động và tác động như thế nào
* Tìm kiếm những hình
thức khởi đầu của các vấn đề, chúng biến đổi ra sao và tác động đến chúng ở
những vấn đề gì?
* Xác định những khía
cạnh khác nhau của các vấn đề và chúng phù hợp với nhau ra sao?
* Lượng giá về động cơ
cho sự biến đổi.
* Xác định những mô hình
tư duy và những cảm xúc có trước, trong và sau những biến cố về hành vi của vấn
đề.
* Xác định những điểm
mạnh trong và xung quanh thân chủ.
Như vậy, ở đây, cán sự xã
hội cần xác định, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới thân chủ, các cán sự nên
tập trung nhiều vào việc mô tả về hành vi hơn là phán xét về nó. Những vấn đề
nảy sinh trong và sau quá trình can thiệp cũng cần được đo lường bởi nhiều khi
“giai đoạn đối lập” sẽ xuất hiện sau một giai đoạn can thiệp và việc can thiệp
lại khởi động lại thêm lần nữa. Trong quá trình trị liệu, các cán sự có thể
chia làm hai nhóm để kiểm soát những phản ứng (gồm các hoạt động như mô hình
hóa, đào tạo kỹ năng xã hội, sự quyết đoán…) và quản lý những vấn đề bất ngờ.
Đánh giá của Scott (1989)
về cách tiếp cận nhận thức hành vi cũng tương phản với Sheldon qua việc nhấn
mạnh đến những hình thức can thiệp về nhận thức. Đánh giá của ông về can thiệp
nhận thức chính là việc chúng được tóm lược, có khả năng ứng dụng rộng rãi,
được cấu trúc ở cấp độ cao, dễ dàng học hỏi và có hiệu quả. Ông áp dụng để đánh
giá trong bốn lĩnh vực về hành vi của trẻ, rối loạn xúc cảm như lo lắng và thất
vọng, các vấn đề liên quan cá nhân như vấn đề hôn nhân hay thiếu kỹ năng xã hội
và những rối loạn về việc tự kiểm soát việc lạm dụng chất ma túy.
Bản chất của Thuyết nhận thức - hành vi
- Sơ lược về Thuyết
hành vi: S ->
R -> B (S là tác nhân kích thích, R là phản ứng, B là hành vi). Thuyết cho
rằng con người có phản ứng do có sự thay đổi của môi trường để thích nghi. Như
vậy, khi có 1 S sẽ xuất hiện nhiều R của con người, nhưng dần dần sẽ có 1 R có
xu hướng lặp đi lặp lại do chúng ta được học hay được củng cố khi kết quả của
phản ứng đó mang lại điều gì chúng ta mong đợi. Như vậy theo thuyết này thì
hành vi con người là do chúng ta tự học mà có và môi trường là yếu tố quyết
định hành vi. (Do trời mưa, do tắc đường nên nghỉ học…). Các mô hình trị liệu
hành vi vì thế mà nhiều khi được sử dụng một cách sai lầm như phương pháp
thưởng phạt. Phương pháp này gây cho đối tượng cảm giác bị áp đặt.
Thuyết nhận thức-hành
vi:
- Thuyết trị liệu nhận
thức – hành vi hay còn gọi là thuyết trị liệu nhận thức (behavioral cognitive
therapy) bởi nền tảng của nó là các ý tưởng hành vi hoặc là trị liệu nhận thức
xã hội do sự liên kết của nó với lý thuyết học hỏi xã hội
-
Nội dung của thuyết: thuyết này cho rằng: chính tư duy quyết định phản ứng chứ không phải do
tác nhân kích thích quyết định. Sở dĩ chúng ta có những hành vi hay tình cảm
lệch chuẩn vì chúng ta có những suy nghĩ không phù hợp. Do đó để làm thay đổi
những hành vi lệch chuẩn chúng ta cần phải thay đổi chính những suy nghĩ không
thích nghi.
-
Mô hình: S
-> C -> R -> B
Trong đó: S là tác nhân kích thích, C là nhận thức, R là
phản ứng, B là kết quả hành vi.
Gỉai thích mô hình: Theo
sơ đồ thì S không phải là nguyên nhân trực tiếp của hành vi mà thay vào đó
chính nhận thức C về tác nhân kích thích và về kết quả hành vi mới dẫn đến phản
ứng R.
Ví dụ: tâm lý của học viên khi có thông báo
thanh tra xuống kiểm tra, người thì lo lắng không biết mình có bị phát hiện đi
học hộ, người thì trách móc trước sự khắt khe của thanh tra, người thì nghĩ
mình may mắn khi không nghỉ quá buổi học, người thì thấy đúng và ủng hộ =>
xuất phát từ nhận thức về tác nhân kích thích thanh tra.
-
Quan điểm về nhận thức và hành vi: 2 quan điểm
+ Theo các nhà lý thuyết
gia nhận thức- hành vi thì các vấn đề nhân cách hành vi của con người được tạo
tác bởi những suy nghĩ sai lệch trong mối quan hệ tương tác với môi trường bên
ngoài. (Aron T. Beck và David Burns có lý thuyết về tư duy méo mó). Con
người nhận thức lầm và gán nhãn nhầm cả từ tâm trạng ở trong ra đến hành vi bên
ngoài, do đó gây nên những niềm tin, hình tượng, đối thoại nội tâm tiêu cực.
Suy nghĩ không thích nghi tốt đưa đến các hành vi của một cái tôi thất bại.(ví
dụ, đứa trẻ suy nghĩ và chắc mẩm rằng mẹ mình không yêu thương mình bằng em
mình, từ đó đứa trẻ xa lánh mẹ và tỏ thái độ khó chịu với mẹ, không gần gũi…)
+ Hầu hết hành vi là do
con người học tập (trừ những hành vi bẩm sinh), đều bắt nguồn từ những tương
tác với thế giới bên ngoài, do đó con người có thể học tập các hành vi mới, học
hỏi để tập trung nghĩ về việc nâng cao cái tôi, điều này sẽ sản sinh các hành
vi, thái độ thích nghi và củng cố nhận thức.
=> Như vậy, lý thuyết
này cho ta thấy rằng cảm xúc, hành vi của con người không phải được tạo ra bởi
môi trường, hoàn cảnh mà bởi cách nhìn nhận vấn đề. Con người học tập bằng cách
quan sát, ghi nhớ và được thực hiện bằng suy nghĩ và quan niệm của mỗi người về
những gì họ đã trải nghiệm.
Như
vậy, thuyết này mang tính nhân văn cao cả và đúng đắn khi đã đặt đúng trọng tâm
vai trò của chủ thể con người trong hành vi của họ (khác với thuyết hành vi coi
trọng yếu tố tác nhân kích thích; thuyết học tập xã hội coi trọng yếu tố thói
quen hay học tập).